Bài thuốc tự nhiên giúp giảm cholesterol

Cả cholesterol và triglycerides hình thành và tích tụ nhiều trong cơ thể có thể dần dần gây hại cho sức khỏe, thậm chí, ngay cả khi cơ thể bạn sản sinh cholesterol để “tạo ra hormon, vitamin D và axit mật. Cholesterol từ thực phẩm có thể dẫn tới nguy cơ khi tích tụ tới mức báo động. Tích tụ cholesterol có thể gây xơ vữa động mạch. Một số người bị tình trạng do nguyên nhân di truyền. Những người khác tăng cholesterol có thể do tuổi tác. Dùng thuốc để điều trị tình trạng này có thể tăng gánh nặng lên gan cũng như thận. Vì vậy bạn nên dùng những bài thuốc tự nhiên để đối phó với tình trạng này.

Dưới đây là bài thuốc đơn giản có thể giúp bạn kiểm soát hàm lượng cholesterol trong cơ thể:

Lấy một quả bí đỏ vừa chín, cắt một lát nhỏ với trọng lượng khoảng 100g. Cho miếng bí vào máy xay và thêm 200ml. Trộn đều hỗn hợp này. Sau đó sử dụng hỗn hợp này hàng ngày, nửa giờ trước bữa sáng. Thực hiện liên tục trong 30 ngày, bạn sẽ thấy hiệu quả.

Ngoài ra, hạt bí đỏ giúp duy trì hàm lượng cholesterol tốt và xấu lành mạnh. Chúng chứa phytosterol, giúp kiểm soát hàm lượng cholesterol xấu. Phytosterol có thể khiến cơ thể giảm hấp thu cholesterol từ thực phẩm bạn ăn. Đó là lý do bạn nên ăn nửa chén hạt bí đỏ mỗi ngày. Hạt bí đỏ cũng chứa khoáng chất magiê. Loại khoáng chất này giúp kiểm soát huyết áp và ngăn ngừa những rối loạn như đột quỵ và đau tim.

BS Thu Vân

(Theo Univadis/ Boldsky)

Bài thuốc trị suy giãn tĩnh mạch chân

Suy giãn tĩnh mạch chân hay còn gọi là suy giãn tĩnh mạch chi dưới là tình trạng suy giảm chức năng, đưa máu trở về tim của hệ thống tĩnh mạch nằm ở vùng chân... Đông y gọi là chứng thanh xà độc, bởi nhìn bên ngoài khối tĩnh mạch ở bắp chân ngoằn nghèo giống như con rắn xanh.

Hình ảnh suy giãn tĩnh mạch.

Hình ảnh suy giãn tĩnh mạch.

Nguyên nhân do huyết ứ, khí trệ. Mạch máu lưu thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tư thế làm việc, môi trường ẩm thấp, béo bệu, rối loạn hormon, thoái hóa van tĩnh mạch do tuổi tác...

Biểu hiện: người bệnh xuất hiện các triệu chứng như cảm giác nhức mỏi, nặng chân, phù, tê bì, hay bị chuột rút về đêm...

Bài thuốc điều trị: Đương quy 20g, xích thược 20g, hồng hoa 15g, đào nhân 16g, xuyên khung 15g, sinh địa 15g, hoàng kỳ 12g, thục địa 10g, hòe hoa 20g, đan sâm 20g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống liền trong 20-30 ngày là 1 liệu trình. Uống khi thuốc còn ấm, sau bữa ăn 30 phút.

Bài thuốc có tác dụng hoạt huyết, trục huyết ứ, chống viêm, thông kinh, lợi thấp, giảm đau, thanh nhiệt lương huyết, bổ âm, dưỡng huyết, làm chắc thành mạch, hành khí, lưu thông khí huyết đưa máu về tim. Ngoài ra, trong thời gian uống thuốc không ăn thức ăn cay nóng, khó tiêu, ngủ đủ nhu cầu, ăn nhiều rau củ quả. Công việc phải đứng lâu, ngồi lâu nên có thời gian giải lao để máu bớt ứ đọng, duy trì cân nặng, tập thể dục đều đặn và phù hợp.

ThS. Phạm Minh Dương

Ứng dụng bài thuốc huyết phủ trục ứ thang trên lâm sàng

Bài thuốc được nhiều tác giả nghiên cứu trên lâm sàng và bài thuốc này là bài thuốc phối hợp của bài Tứ vật đào hồng thang với Tứ nghịch tán, lại thêm cát cánh, ngưu tất.

Các công trình nghiên cứu

Nguyễn Minh Hà, Nguyễn Công Thực (Viện Y học cổ truyền Quân đội) đề tài: Đánh giá tác dụng làm giãn mạch và chống đông máu trên thỏ thực nghiệm của dịch hòa tan Viên nang Dưỡng tâm đan (bào chế dựa trên bài thuốc Huyết phủ trục ứ thang) cho kết quả: dịch hòa tan viên nang Dưỡng tâm đan 1,5% có tác dụng làm giãn mạch trên tai thỏ cô lập; dịch hòa tan viên nang Dưỡng tâm đan 1,5% có tác dụng chống đông máu invitro như: kéo dài thời gian Quick, thời gian APTT, thời gian thrombin và làm giảm độ ngưng tập tiểu cầu. Tác dụng giãn mạch và kháng đông của lô dùng viên nang dưỡng tâm đan là tương đương trên tất cả các chỉ tiêu nghiên cứu. Nghiên cứu cũng cho thấy bài thuốc Huyết phủ trục ứ thang không làm ảnh hưởng lên chức năng gan và thận của thỏ thực nghiệm.

Nhóm tác giả Lê Thị Bình, Lê Thanh Nhạn (Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam) và Lê Thị Kim Oanh (Viện Y dược học dân tộc TP.HCM)thực hiện nghiên cứu trên 30 bệnh nhân tuổi từ 18 - 75, điều trị tại Viện Y dược học dân tộc TP.HCM từ 8/2011 - 6/2012 nhằm đánh giá tác dụng điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới trên lâm sàng của bài thuốc Huyết phủ trục ứ thang, đồng thời xác định tác dụng không mong muốn của bài thuốc này.

Sau khi cho 30 bệnh nhân dùng cao lỏng Huyết phủ trục ứ thang: ngày 1 chai / 3 lần uống trong ngày, uống khi no, liệu trình điều trị 30 ngày, kết quả cho thấy Huyết phủ trục ứ thang có tác dụng giảm bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới, hiệu quả giảm đau, chuột rút, nặng mỏi, phù. Chỉ số cận lâm sàng về chức năng thận, gan, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, glucose, cholesterol, tryglycerid, HDL-C (cholesterol tỉ trọng cao) và LDL-C (cholesterol tỉ trọng thấp), không thay đổi sau khi uống thuốc (p>0,05). Mạch, huyết áp không thay đổi trước và sau điều trị với p>0,05. Tác dụng không mong muốn chiếm tỉ lệ rất thấp, tiêu chảy (10%), đầy bụng (6,7%), buồn nôn (6,7%), tất cả đều hết ngay sau khi xử lý.

Đặng Minh Hằng, Trần Thị Phương Linh - Đại học Y Hà Nội 2007: nghiên cứu bài thuốc Huyết phủ trục ứ thang, thành phần gồm: đào nhân, hồng hoa, xuyên khung, đương quy, ngưu tất, sinh địa, xích thược, sài hồ, chỉ xác, cát canh, cam thảo. Liệu trình điều trị 30 ngày. Kết quả điều trị 30 bệnh nhân có đau thắt ngực do bệnh mạch vành, sau điều trị tác dụng làm giảm tần số cơn đau ngực sau điều trị đạt tỉ lệ 83,3%, tác dụng cải thiện thiếu máu cục bộ trên điện tâm đồ và điện tâm đồ gắng sức đạt tỉ lệ 53,3%, tác dụng giảm độ ngưng tập tiểu cầu sau điều trị có ý nghĩa thống kê với P<0,05.

Ứng dụng bài thuốc huyết phủ trục ứ thang trên lâm sàng

Ngưu tất

Những tác dụng

Thiếu máu cục bộ cơ tim: một nghiên cứu báo cáo hiệu quả đến 89,3% khi sử dụng Huyết phủ trục ứ thang để điều trị bệnh nhân cao tuổi bị thiếu máu cục bộ tim. Trong số 84 bệnh nhân, nghiên cứu báo cáo cải thiện đáng kể trong 29 trường hợp, vừa phải cải thiện trong 46 trường hợp, và không có tác dụng trong 9 trường hợp. Thời gian từ 1 - 3 đợt điều trị.

Bài thuốc không làm ảnh hưởng lên chức năng gan và thận của thỏ thực nghiệm

Viêm tĩnh mạch: huyết phủ trục ứ thang chứng minh là có hiệu quả điều trị viêm tĩnh mạch. Ngoài công thức cơ bản, gia mẫu đơn bì,đã được bổ sung điều trị tấy đỏ và sưng liên quan đến huyết nhiệt; tam thất được thêm vào để kháng viêm; và huỳnh kỳ đã được bổ sung để bổ khí. Mỗi liệu trình điều trị là 7 ngày. Trong số 38 bệnh nhân, nghiên cứu báo cáo lợi ích đáng kể trong 8 trường hợp, cải thiện vừa phải trong 29 trường hợp, và không có hiệu lực trong 1 trường hợp.

Tai biến mạch máu não: lợi ích trong việc ngăn ngừa và điều trị đột quỵ thiếu máu cục bộ và đã được phối hợp với nhiều bài thuốc, bao gồm cả Huyết phủ trục ứ thang, Bổ dương hoàng ngũ thang, Tiểu tục mệnh thang. Các cơ chế của những tác dụng có lợi là do chống tăng cholesterol máu, chống oxy hóa, ngăn sự hình thành của các gốc tự do.

Xơ vữa động mạch não: 63 bệnh nhân điều trị với kết quả tốt bằng cách sử dụng Huyết phủ trục ứ thang phối hợp với châm cứu.

Thận trọng và chống chỉ định

Huyết phủ trục ứ thang là chống chỉ định trong thai kỳ, đang dùng thuốc chống đông (như aspirin, clopidogrel, warfarin, heparin…), người có tiền căn bệnh rối loạn đông máu, đang bị xuất huyết, loét dạ dày tá tràng, tiền căn xuất huyết não.

Thận trọng: nếu đang uống kháng sinh thì uống cách nhau 90 phút.

Khi dùng thuốc phải theo dõi có xuất huyết dưới da, chảy máu bất thường hay không.

Nếu sử dụng trong một thời gian kéo dài, thảo dược bổ huyết nên được bổ sung cho phù hợp.

Huyết phủ trục ứ thang: đào nhân 16g, ngưu tất 12g, hồng hoa 12g, cát cánh 6g, đương quy 12g, sài hồ 4g, sinh địa 12g, chỉ xác 8g, xuyên khung 6g, cam thảo 4g, xích thược 8g.

BS. PHẠM THỊ THANH

Một số mẹo nhỏ giúp cai nghiện rượu

Chuyên gia dinh dưỡng Shikha Gupta cho rằng một vài ngày đầu có thể rất khó khăn nhưng một số mẹo nhỏ có thể thực hiện tại nhà dưới đây sẽ giúp việc cai nghiện rượu trở nên dễ dàng hơn.

1. Quả mướp đắng

Mướp đắng có thể hỗ trợ loại bỏ độc tố khỏi cơ thể và làm lành các tổn thương gan do uống rượu. Bạn hãy ép một vài miếng mướp đắng để lấy nước, sau đó pha ba thìa cà phê nước ép mướp đắng với một cốc sữa và uống vào sáng sớm khi đói.

2. Hạt bí đỏ và hạt gai dầu

Những loại hạt này rất giàu axít amin. Ăn các loại thực phẩm giàu axít amin sẽ giúp cân bằng tâm trạng, điều này hỗ trợ quá trình cai nghiện rượu.

3. Bồ công anh

Bồ công anh có tác dụng điều trị các triệu chứng cai nghiện rượu đồng thời tái tạo các mô gan và tăng cường sản sinh mật. Pha một thìa cà phê rễ bồ công anh sấy khô với một ly nước sôi và uống 2 đến 3 lần/ngày.

4. Quả chà là

Chà là có thể làm giảm cơn thèm rượu, bù đắp các dưỡng chất bị thiếu hụt và giúp thanh lọc các độc tố từ gan. Bạn hãy ngâm 4 – 5 quả chà là trong một cốc nước, tách lấy hạt và nghiền các các hạt đã được ngâm trong nước. Bạn nên uống hỗn hợp này 2 lần/ngày từ 1 đến 2 tháng.

5. Cần tây

Cần tây không chỉ làm giảmcảm giác thèm rượu mà còn giúp thải độc ra khỏi cơ thể và cải thiện sức khỏe chung của bạn. Chỉ cần pha ½ cốc nước ép cần tây với ½ cốc nước và uống 2 lần/ngày.

6. Dầu dừa

Uống các loại đồ uống chứa cồn sẽ dẫn đến căng thẳng ôxy hóa, cản trở quá trình chuyển hóa đường trong não. Dầu dừa chứa rất nhiều chất chống ôxy hóa giúp nuôi dưỡng và phục hồi não bộ. Do vậy, bạn nên bổ sung 1 – 2 thìa cà phê dầu dừa nguyên chất vào thực phẩm hàng ngày để giảm các triệu chứng cai nghiện.

BS Tuyết Mai

(Theo Univadis/ Healthsite)

Y học cổ truyền điều trị đau răng lợi

Hầu như ai trong chúng ta cũng đã từng trải qua các cơn đau răng lợi, gây nhiều khó chịu cũng như phiền toái trong việc ăn uống. Nặng có thể kèm theo sốt, ảnh hưởng đến sức khỏe và công việc.

Y học cổ truyền cho rằng răng là phần dư của xương cốt, do thận làm chủ. Các đường kinh mạch túc dương minh vị và thủ dương minh đại trường đi qua lợi. Do đó đau răng lợi có quan hệ với các tạng thận, vị, đại trường. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đau răng lợi như vị hỏa thượng nhiệt, phong hỏa thượng công, thận âm bất túc, hàn nhiệt kích thích và sâu răng, vì vậy việc chẩn đoán và điều trị phải dựa trên các nguyên nhân khác nhau.

Bột nghệ có tác dụng chữa đau răng

Vị hỏa thượng nhiệt

Bệnh nhân có triệu chứng lợi sưng lên, má cùng bên sưng, thậm chí không thể nhai, tại chỗ có cảm giác nóng hoặc bỏng rát, đau miệng, hơi thở hôi, táo bón, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng.

Phương pháp điều trị: thanh nhiệt tả hỏa, tiêu sưng chỉ thống.

Bài thuốc thanh vị tán gia giảm: liên kiều 8g, bạch chỉ 10g, quy vĩ 12g, sinh địa 12g, đan bì 10g, thăng ma 10g, hoàng liên 10g, phòng phong 12g, thạch cao 20g, ngưu tất 12g, tri mẫu 10g, đại hoàng 6g, sinh khương 3 lát, đại táo 5 quả. Sắc uống ngày 1 thang.

Phong hỏa thượng công

Bệnh nhân có triệu chứng lợi hơi sưng đỏ, đau liên miên, răng lung lay, có thể có chảy máu chân răng.

Phương pháp điều trị: tư âm giáng hỏa, bổ thận chắc răng.

Bài thuốc lục vị địa hoàng gia vị: thục địa 24 g, hoài sơn 12g, phục linh 12g, trạch tả 12g, sơn thù 9g, đan bì 9g, ngưu tất 10g, bổ cốt chỉ 10g. Nếu lợi sưng nhiều gia thêm tri mẫu 10g, hoàng bá 6g.

Đau răng do phong hàn

Bệnh khởi phát đột ngột, đau lan ra trán và hai bên đầu, lợi không sưng đỏ. Nếu đau di chuyển, đau như điện giật lan ra trán và hai bên má gọi là đau do phong. Nếu đau xuất phát khi tiếp xúc với lạnh, điểm đau cố định gọi là đau do lạnh.

Phương pháp điều trị: khu phong tán hàn chỉ thống.

Đau do lạnh là chủ yếu dùng bài: đương quy 10g, tế tân 6g, xuyên khung 10g, bạch chỉ 10g, huyền hồ sách 5g, chỉ xác 10g, cát cánh 6g, cam thảo 6g.

Đau do gió là chủ yếu dùng bài: quế chi 6g, phòng phong 6g, hạt cải 10g, cát cánh 10g, tô diệp 6g, tế tân 3g, trúc diệp 6g, đan bì 10g, cam thảo 5g. Dù đau do gió hay do lạnh đều có thể dùng tế tân, bạch chỉ, thương nhĩ tử, cam thảo mỗi thứ 10g, đun lấy nước súc miệng nhiều lần trong ngày.

Đau răng lợi do sâu răng

Đây là loại đau do sâu răng nên chỉ điều trị bằng thuốc uống cho kết quả không lý tưởng mà cần kết hợp với điều trị tại chỗ sẽ cho kết quả tốt hơn.

Thuốc uống dùng bài định thống tán gồm: đương quy 10g, sinh địa 12g, tế tân 6g, bạch chỉ 10g, liên kiều 10g, khổ sâm 10g, xuyên tiêu 5g, hoàng liên 10g, ô mai 10g, cát cánh 6g, cam thảo 6g. Thuốc dùng ngoài gồm xuyên tiêu, hạt tiêu, ngũ bội tử mỗi thứ 5g, băng phiến 0,5 g, xay thành bột mịn. Khi dùng lấy tăm bông vô khuẩn chấm vào bột thuốc nhét vào chỗ răng sâu, sau khi chảy nước dãi ra cơn đau dừng lại.

Ngoài việc điều trị theo biện chứng như trên trong dân gian còn có một số cách đơn giản để điều trị chứng bệnh này. Dùng búp lá non của cây bàng, nhai ngậm, mỗi lần 5 - 10 phút, có thể thêm chút muối ăn, cùng ngậm 5 - 10 phút. Sau mỗi lần ngậm, súc miệng sạch. Ngày làm 3-5 lần.

Lá trầu không: lấy khoảng 10 lá tươi, cắt nhỏ, thêm một bát nước sạch, sắc nhanh (15 phút) lấy nước ngậm mỗi khi đau răng, mỗi lần ngậm 5 - 10 phút. Ngày 5 - 10 lần.

Bột nghệ: cho một ít bột nghệ vào chỗ răng bị đau, bạn sẽ thấy dễ chịu hơn.

Lá lốt: Dùng toàn bộ cây, sắc đặc, lấy nước, ngậm khi răng, lợi đau.

Lột vỏ một tép tỏi, đập dập và nhét vào chỗ răng đau, nước tỏi cũng có tác dụng làm tê khu vực bị tổn thương và giúp bạn bớt đau.

TS.BS CKII. Dương Trọng Nghĩa




Chữa bệnh bằng... nhiệt

Từ lâu, nhân dân ta đã biết sử dụng các biện pháp chườm nóng hoặc chườm lạnh để chữa đau lưng, đau khớp, sưng nề sau chấn thương, hoặc điều trị các viêm tấy. Để chườm nóng hoặc chườm lạnh, người ta sử dụng các chất trung gian truyền nhiệt...

Nhiệt là đại lượng đặc trưng cho cảm giác nóng hoặc lạnh. Từ định nghĩa đó người ta chia ra: nhiệt nóng, nhiệt trung hòa, nhiệt lạnh. Nhiệt nóng là nhiệt độ cao hơn, còn nhiệt lạnh là nhiệt độ thấp hơn vùng cơ thể mà nhiệt tác động. Nhiệt trung hòa là nhiệt độ ngang bằng với nhiệt độ của vùng cơ thể mà nhiệt tác động, và không gây ra cảm giác thay đổi về nhiệt. Trong y học, người ta sử dụng nhiệt nóng và nhiệt lạnh để điều trị.

Tất cả các chất thỏa mãn các điều kiện như không gây độc hoặc dị ứng khi tiếp xúc với da, giữ nhiệt lâu và truyền nhiệt từ từ, dễ sử dụng, đều có thể dùng làm chất trung gian truyền nhiệt.

Trong các khoa Vật lý trị liệu người ta sử dụng paraffin, túi silicagen, khay nhiệt điện, túi chườm nhiệt sử dụng điện. Trong dân gian thường dùng cám rang, muối rang, lá cây sao nóng, túi nước nóng, ngâm trong nước nóng, để làm các chất trung gian truyền nhiệt. Sử dụng nhiệt để điều trị đã mang lại hiệu quả rất tốt, nhưng nếu dùng không đúng có thể gây thêm tác dụng có hại. Vì vậy hiểu biết về tác dụng của nhiệt trong chữa bệnh là kiến thức cần thiết đối với mỗi người.

Nhiệt nóng

Tác dụng của nhiệt nóng là gây giãn mạch, làm tăng lượng máu đến vùng điều trị. Nhờ việc tăng tuần hoàn và dinh dưỡng cho vùng điều trị sẽ kích thích quá trình tái tạo tế bào, hàn gắn tổn thương. Nhiệt nóng còn làm tăng các phản ứng sinh học, tăng quá trình chuyển hóa của mô, làm tăng tái tạo mô, làm tăng tính thấm của mô, tăng trao đổi dịch giữa khoang máu và khoang kẽ tế bào, do đó làm tăng quá trình hấp thu dịch nề, làm giảm nề, giảm đau; Làm tăng khả năng xuyên mạch của bạch cầu, tăng khả năng thực bào của bạch cầu, làm phân tán nhanh các chất trung gian gây viêm, do đó làm giảm viêm cả viêm do nhiễm khuẩn và viêm không do nhiễm khuẩn...

Vì vậy, nhiệt nóng được dùng rộng rãi để điều trị các vùng viêm do nhiễm khuẩn giai đoạn viêm tấy chưa hóa mủ (như viêm cơ), điều trị các trường hợp viêm không do nhiễm khuẩn (như viêm khớp dạng thấp, viêm quanh khớp vai, viêm cột sống dính khớp), điều trị các vùng đau do thoái hóa (như đau cột sống cổ, đau thắt lưng, đau khớp do thoái hóa cột sống, thoái hóa khớp); làm giảm nề, tan khối máu tụ sau chấn thương; làm nhanh liền sẹo vết thương, làm sẹo mềm mại, chống dính và co kéo do sẹo...

Mặc dù nhiệt nóng được chỉ định rất rộng rãi và an toàn, nhưng cũng có những chống chỉ định. Đó là các vùng đang chảy máu hoặc đe dọa chảy máu, các ổ viêm đã hóa mủ, các vùng có khối u cả u lành và u ác tính, các vùng lao đang tiến triển như lao khớp, lao cột sống, các chấn thương mới trong một hai ngày đầu, những người đang sốt.

Cách dùng: Mỗi lần đắp nóng nên duy trì 20-30 phút. Một ngày có thể đắp nóng 1 đến 4 lần. Mỗi lần đắp nóng không quá 1/6 diện tích cơ thể để tránh gây rối loạn thân nhiệt. Khi đắp nóng cần chú ý tránh để nhiệt độ quá cao (>40o) vì có thể gây bỏng.

Nhiệt lạnh

Nhiệt lạnh gây ra các tác dụng ngược lại so với nhiệt nóng, như làm co mạch, giảm tuần hoàn, giảm dinh dưỡng, giảm chuyển hóa, giảm tiêu thụ oxy, giảm tính thấm của mô. Nếu bị lạnh quá lâu có thể gây ra thiếu dinh dưỡng và hoại tử mô do lạnh. Nhiệt lạnh được dùng để làm giảm sưng nề sau các chấn thương mới, làm giảm chảy máu ở những vùng đang chảy máu hoặc có nguy cơ chảy máu, như chườm lạnh vùng thượng vị trong chảy máu dạ dày, giảm tụ máu, giảm nề trong chấn thương mới (một hai ngày đầu), chườm lạnh để hạ nhiệt độ khi sốt cao, bảo quản mô ghép giúp mô ghép chịu đựng được tình trạng thiếu oxy kéo dài mà không bị hủy hoại. Người ta thường dùng túi nước lạnh, túi nước đá, hoặc ngâm chi trong nước lạnh. Cần chú ý thời gian chườm lạnh cần ngắn vài phút, không kéo dài để tránh gây tổn thương mô do thiếu dinh dưỡng.

BS. Phan Kim Toàn



Lương y Nguyễn Anh Tuấn chữa yếu sinh lý nam và vô sinh nam

Sự sáng tạo trong cách chữa vô sinh

Lương y Nguyễn Anh Tuấn

Nếu ai đã từng mắc chứng hiếm muộn, mới thấy nỗi khổ của các bệnh nhân. Không đau đớn về thể xác như những căn bệnh khác, nhưng lại áp lực vì tinh thần. Người thì mất ăn, mất ngủ vì hiếm muộn, người thì tìm đủ mọi cách, thậm chí cả sử dụng những biện pháp mê tín dị đoan như cúng lễ, giải tiền duyên, cưới lại... khiến tốn kém và lãng phí thời gian chữa trị.

Thấu hiểu được nỗi khổ của các cặp vợ chồng, trong những năm qua, lương y Nguyễn Anh Tuấn đã dày công nghiên cứu và phát huy bài thuốc gia truyền của mình.Theo Lương y Nguyễn Anh Tuấn để chữa trị vô sinh, hiếm muộn, ông sử dụng các phương thuốc cổ phương một cách linh hoạt, sáng tạo, kết hợp với bài thuốc gia truyền quý giá.

“Sách viết, chữa bệnh không con, trai chủ tinh, gái chủ huyết. Với con trai lấy bổ thận làm cốt, gái lấy điều kinh làm đầu, lại kết hợp những phép bổ khí, hành khí, một cách thấu suốt thì có thể thụ thai được. Y tổ cho rằng, sở dĩ đàn bà vô sinh do lục dâm thất tình gây tổn thương mạch xung, nhâm, hoặc bệnh ẩn nấp nơi tạng phủ. Hoặc tử cung lạnh, khí huyết suy, nhiệt trong huyết hoặc tỳ vị hư, không nuôi dưỡng được mạch xung, huyết ngưng trệ”

Lý giải về sự sáng tạo của mình, lương y Tuấn cho biết: tùy bệnh trạng của mỗi người bệnh mình sử dụng gia giảm liều lượng các vị thuốc cho phù hợp, đem lại hiệu quả cao. Không phải ai hiếm muộn cũng dùng một loại thuốc. Từ xưa người ta vẫn trị vô sinh, hiếm muộn bằng các bài thuốc của đông y, thuốc Nam. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học thì điều trị vô sinh là bước tiến của nhân loại. Theo đó, việc kết hợp một cách hài hòa bài thuốc Nam dựa trên kết quả xét nghiệm của tây y là cách làm mới và chính xác cao.

Theo đó, đối với người nam xác định đúng tình trạng tinh trùng thiếu dị dạng; tinh trùng không di động; có số lượng tinh trùng …Theo đông y gọi những trường hợp này do: Thận âm; thận dương suy; tinh lạnh; yếu sinh lý, liệt dương di tinh; xuất tinh sớm thì khả năng điều trị bằng phương pháp đông y đạt hiệu quả cao.

Như vậy, việc Lương y Tuấn dựa vào kết quả xét nghiệm tinh dịch đồ của tây y và phối hợp với bài thuốc gia truyền để điều trị bệnh vô sinh, hiếm muộn là hoàn toàn hợp lý, mang tính khoa học.

Có thể nói đây là một phát minh của y học cổ truyền cần được nghiên cứu thêm để áp dụng rộng giúp người nghèo vì kết quả đã được chứng minh qua nhiều cặp gia đình đã được trị thành công.

Hàng trăm cặp vô sinh đã thành công

Thuốc nam gia truyền Ông Nhất Lương y Nguyễn Anh Tuấn

Trong những năm qua, Lương y Nguyễn Anh Tuấn đã điều trị thành công cho hàng trăm các cặp vợ chồng hiếm muộn .Vô sinh, hiếm muộn là đề tài tốn không ít giấy mực của các giáo sư, bác sĩ trong những năm gần đây. Nó làm ảnh hưởng lớn tới hạnh phúc gia đình khi thiếu vắng những đứa trẻ.

Có nhiều biện pháp từ tây y đến đông y được áp dụng cho các cặp vợ chồng hiếm muộn. Thế nhưng, có người trông ngóng, hy vọng để rồi lại thất vọng, nhưng có những người may mắn gặp thầy gặp thuốc chỉ vài thang thuốc đông y đã đem đến điều kỳ diệu.

Lương y Nguyễn Anh Tuấn kể lại trường hợp của anh NDT (TP Vũng Tàu). Vợ chồng anh lấy nhau 5 năm nhưng chưa một lần đậu thai. Họ chạy chữa rất nhiều nơi mà hy vọng để rồi lại thất vọng. Khi đi khám nam khoa tại bệnh viện thì được kết luận anh T bị giãn tĩnh mạch thừng tinh độ 2, chỉ định phẫu thuật, tinh trùng yếu, dị dạng khó có khả năng thụ thai tự nhiên. Còn vợ thì kinh nguyệt không đều. Cầm tờ kết quả trong tay, vợ chồng anh như thấy hết hy vọng. Sau đó anh được người quen giới thiệu tới lương y Tuấn. Anh dùng thuốc đông y vài tháng, tinh trùng cải thiện và anh chị đã có con tự nhiên. Hiện nay, vợ chồng anh có một cháu trai kháu khỉnh, khỏe mạnh.

Nói về giãn tĩnh mạch thừng tinh, lương y Nguyễn Anh Tuấn cho hay: Giãn tĩnh mạch thừng tinh chiếm 8 – 16% nam giới và khoảng 20 – 40% ở bệnh nhân nam vô sinh. Mặc dù được xem là thương tổn bẩm sinh, giãn tĩnh mạch thừng tinh hiếm khi được chẩn đoán trước tuổi đi học. Tần suất và mức độ trầm trọng thay đổi tùy độ tuổi, phương pháp chẩn đoán và giai đoạn. Giãn tĩnh mạch thừng tinh xảy ra do máu của các tĩnh mạch này chảy ngược về chỗ thấp (thay vì về tim), nguyên nhân thường do các van bên trong tĩnh mạch bị hư hoặc do các tĩnh mạch tinh bị chèn ép bởi các tác nhân khác trên đường đi. Nếu tĩnh mạch thừng tinh giãn lớn, bạn có thể thấy khối phồng ở góc trên bìu do tĩnh mạch giãn to nổi ngay dưới da. Điều trị nội khoa bằng thuốc không hiệu quả đối với giãn tĩnh mạch thừng tinh. Có nhiều phương pháp điều trị như: phẫu thuật thông thường, phẫu thuật vi phẫu, phẫu thuật nội soi ổ bụng, làm tắc mạch bằng bóng hay vòng xoắn... Hiện nay, phương pháp phẫu thuật vi phẫu (mổ bằng kính hiển vi) được xem là tiêu chuẩn vàng vì hiệu quả cao, ít biến chứng. Sau phẫu thuật, khoảng 60 – 80% bệnh nhân có số lượng và chất lượng tinh trùng cải thiện đáng kể.

Hiếm muộn do chất lượng tinh trùng kém

Thuốc nam gia truyền Ông Nhất Lương y Nguyễn Anh Tuấn

Lật trang danh sách có ghi những người đã chữa khỏi, anh dừng lại kể cho tôi nghe câu chuyện đáng nhớ của vợ chồng anh D (Đồng Nai).

Lấy nhau được 6 năm, nhưng cũng là ngần ấy thời gian chị “thả” để mong có con, có người nối dõi cho nhà chồng, song tháng nào, năm nào chị cũng hy vọng để rồi lại thất vọng. Là dâu trưởng trong nhà, mỗi lần nhà có cỗ, tiệc mọi người lại nhìn chị với ánh mắt dị nghị. Có người độc mồm còn bảo nhìn rõ xinh mà tịt. Nuốt nước mắt vào trong khi người dân ở quê thường cho rằng chuyện đẻ không được là lỗi do người phụ nữ. Bao năm chị kinh nguyệt đều, đi siêu âm không có u ở đâu, thế mà mãi không có thai. Thấm thoát mấy năm trôi đi, cuối cùng chị cũng thuyết phục được chồng đi làm xét nghiệm tinh dịch đồ.

Cầm kết quả chồng chị không tin chuyện vô sinh lại do mình khi tinh trùng chỉ đạt 3% độ di chuyển. Lúc này, chị H cảm thấy nhẹ nhàng hơn, nhưng lại thương chồng bởi sự dằn vặt của người đàn ông. Chị bắt đầu loay hoay tìm đủ mọi cách, ai mách thầy nào hay, thuốc nào tốt chị đều tìm đến, nhưng kết quả chẳng thấy đâu, chỉ thấy làm được đồng nào đều không cánh bay đi. Một lần nhân cuộc họp lớp thời đại học, chị H gặp một người bạn, anh cũng từng hiếm muộn mới có con và nguyên nhân cũng do anh, nhưng nhờ Lương y Nguyễn Anh Tuấn mà anh đã có niềm vui khôn tả. Thấy vậy, cánh cửa hạnh phúc đối với vợ chồng anh D bắt đầu lóe sáng.

Sau 3 tháng điều trị, dùng thuốc, chị H cảm thấy người khó chịu, buồn nôn, chán ăn. Không nghĩ “tưởng bở” như những lần trước, chị nghĩ mình trúng gió. Nhưng được sự động viên của chồng, chị đi mua que thử. Chị như vỡ òa trong nhà vệ sinh khi que thử báo 2 vạch. Anh chị lén đưa nhau đi siêu âm, nhưng vì thai còn nhỏ chưa rõ hình ảnh, chị thử máu thì bác sĩ khẳng định có thai. Thời gian mong chờ, nâng niu, sau 8 tháng chị sinh một bé gái khỏe mạnh, trong niềm hạnh phúc và biết ơn lương y vô cùng.

Đây chỉ lài vài trường hợp trong rất nhiều những trường hợp bị vô sinh nam đã được lương y Nguyễn Anh Tuấn trị thành công. Tiếng lành đồn xa, bệnh nhân đến với nhà thuốc từ khắp nơi. Nhiều người đã tìm thấy niềm vui khi có những thiên thần nhỏ.

Tiếp xúc mới lương y Tuấn được chứng kiến những bệnh nhân nói về ông, chúng tôi càng cảm thấy khâm phục tài năng trị bệnh của ông và thầm ước cho những người bệnh “gặp thầy, gặp thuốc” để đẩy lùi bệnh tật, tìm lại niềm vui vốn có của mình.

Bạn đọc muốn liên lạc với lương y Nguyễn Anh Tuấn, xin vui lòng liên hệ:

Lương y Nguyễn Anh Tuấn

ĐT:0913902262 và 0986175745

ĐC: Xã An Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam

Bối mẫu nhuận phổi, trị ho

Bối mẫu chứa các alkaloid (verticine, verticilline, fritillanine, peimine), các hợp chất peiminoside và nguyên tố kim loại (Mn, Cu, Zn..). Có tác dụng hạ huyết áp, long đờm, giảm ho.

Theo Đông y, bối mẫu vị ngọt, hơi đắng, tính mát; vào tâm và phế. Tác dụng chỉ khái hóa đàm, thanh nhiệt tán kết. Trị viêm khí phế quản dạng viêm khô, sốt, ho khan đờm ít, đờm dính vàng đặc đau rát miệng họng (đàm nhiệt khái thấu); viêm sưng hạch vùng cổ (lao hạch), áp-xe phổi, áp-xe vú, viêm cơ có mủ và sưng hạch...

Bối mẫu nhuận phổi, trị hoBối mẫu (dò hành phơi khô của cây bối mẫu).

Ngày dùng 3-10g; nấu hầm, sắc, pha hãm.

Hóa đờm, tiêu tan chất kết tụ: Trị lao hạch, sưng tuyến giáp, viêm phổi, đau họng, mụn nhọt lở.

Bài 1 - Hoàn chữa tràng nhạc: bối mẫu 12g, huyền sâm 16g, mẫu lệ 20g. Nghiền thành bột, phối hợp với mật làm hoàn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 12g với nước đun sôi. Chữa lao hạch.

Bài 2 - Thang tiêu nhọt độc: bối mẫu 12g, thiên hoa phấn 12g, bồ công anh 20g, thanh bì 8g, liên kiều 12g, đương quy 12g, sừng hươu nai 12g. Sắc uống. Trị áp-xe vú mới sưng đau.

Bài 3: bối mẫu 8g, thiên môn 12g, sinh địa 12g, mạch môn 12g, hoài sơn 12g, a giao 12g, phục linh 12g, bách bộ 8g, ngọc trúc 8g, bách hợp 8g. Sắc uống, ngày 1 thang, chữa lao phổi.

Bài 4: bối mẫu 8g, bạch thược 12g, thanh bì 8g, chi tử 8g, trạch tả 8g, đan bì 8g, hoàng liên 8g, trần bì 6g, ngô thù du 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Chữa viêm loét dạ dày tá tràng.

Nhuận phổi, chữa ho: Chữa các chứng do âm hư hỏa vượng như ho, phổi khô, thổ ra đờm kết dính, người nặng, có thể ho ra máu.

Bài 1- Thuốc bột nhị mẫu: bối mẫu 12g, tri mẫu 12g, gừng tươi 3 lát. Sắc uống. Trị sốt nóng do âm hư, ho có ít đờm.

Bài 2 - Thuốc bột bối mẫu: bối mẫu 12g, hạnh nhân 8g, mạch môn đông 12g, tử uyển 12g. Sắc hoặc tán bột uống. Trị ho lâu ngày, khó thở.

Bài 3: bối mẫu 4g, sinh địa 12g, thục địa 12g, huyền sâm 12g, bách hợp 12g, mạch môn 8g, đương quy 8g, bạch thược 8g, cát cánh 6g, cam thảo 4g; nếu ho ra máu, thêm bạch cập 8g, a giao 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Chữa suy nhược cơ thể do phế âm hư.

Dùng cho sản phụ sau đẻ ít sữa: bối mẫu, tri mẫu, mẫu lệ liều lượng bằng nhau thích hợp, tán bột mịn. Uống 16 - 20g bột, chiêu với nước canh chân giò.

Kiêng kỵ: Người có chứng hư hàn (đờm lạnh, đờm loãng ướt) không dùng. Không được dùng với ô đầu (phản ô đầu).

BS. Tiểu Lan

Bài thuốc chữa viêm xoang mũi mạn tính

Viêm xoang mũi mạn tính trẻ em hay gặp ở trẻ trên 5 tuổi, thường viêm xoang hàm hoặc viêm xoang hàm - sàng. Bệnh diễn biến mạn tính ngay từ đầu, rất khó chữa, cả hai bên xoang đều bị viêm.

Trẻ thường ngạt mũi, mũi chảy dịch nhày - mủ (nước mũi đặc hơi xanh) kéo dài, hay tái phát. Nếu nuốt chất dịch này xuống đường tiêu hóa hoặc hít phải sẽ gây viêm phế quản tái diễn, viêm dạ dày ruột non, ho từng cơn…, chảy mũi ra ngoài lỗ mũi thành vệt viêm.

YHCT gọi viêm xoang mũi mạn tính ở trẻ em là cam mũi hoặc tỵ cam. Nguyên nhân do thấp nhiệt hiệp với phong tà nhập vào tỳ phế làm ảnh hưởng trực tiếp đến phế lạc và tỵ khổng gây ra. Trẻ chảy nước mũi đặc liên tục, màu xanh vàng, hơi tanh, hai lỗ mũi đỏ, kèm theo mắt nhíp, người gày yếu, ăn uống kém tiêu hoặc đại tiện lỏng, phân sống, người nóng, hay ra mồ hôi trộm, mạch tế sác. Phương pháp trị là bổ tỳ phế, thông lạc, thanh hư nhiệt, trừ thấp. Dùng bài thuốc:

Thuốc uống

Bài 1: Ích khí tổng minh thang gia giảm: hoàng kỳ 10g, nhân sâm 10g, cát cánh 6g, mạn kinh tử 6g, bạch thược 5g, hoàng liên 3g, cam thảo 3g, thăng ma 5g, thạch xương bồ 5g, liên kiều 5g, la bặc tử 5g, bối mẫu 4g, hoàng cầm 5g. Sắc uống. Chữa chảy nước mũi đặc nhiều không dừng, nước mũi màu vàng đặc hoặc lẫn màu xanh.

Bài 2: Lục thần tán gia giảm: nhâm sâm 6g, bạch truật 8g, phục linh 8g, cam thảo (chích) 4g, biển đậu 6g, hoàng kỳ 6g, hoàng cầm 5g, hạnh nhân 5g, bối mẫu 6g, liên kiều 5g, gừng tươi 3 lát, đại táo 3 quả. Sắc uống.

Bài 3: tang diệp 24g, thương nhĩ tử 10g, tân di 3g, lô căn 24g, cát cánh 10g, cam thảo 3g. Sắc uống. Chữa viêm hốc mũi mạn tính.

Bài 4: nhân sâm 4g, bạch truật 8g, phục linh 8g, cam thảo (chích) 4g, biển đậu 6g, hoàng kỳ 6g, sinh địa 8g, huyền sâm 6g, đan bì 6g, mạch môn 6g, kim ngân 8g, ké đầu ngựa 8g, tân di 4g, hoàng cầm 6g. Sắc uống.

Kết hợp thuốc dùng tại chỗ: bạch chỉ 48g, thương nhĩ tử 48g, thanh đại (sắc bao) 24g; ephedrin clohydrat 10g, nipazin 0,5g, natri clorua. Dùng nước cất sắc với 3 dược liệu, sắc 3 lần, lọc; cô hỗn hợp, cho nipazin vào hòa tan, để nguội cho ephedrin, natri clorua vào khuấy cho tan hết; thêm nước cất vừa đủ 1.000ml, đóng lọ 10ml. Nhỏ mũi ngày 3 lần. Chữa viêm mũi hóa mủ, viêm hốc mũi mạn tính.

Lưu ý: vệ sinh mũi hằng ngày cho trẻ, không dùng tay bẩn ngoáy lỗ mũi. Ăn các chất đủ dinh dưỡng, dễ tiêu hoá.

TS. Nguyễn Đức Quang

Quy tỳ thang bổ tâm, thận

Quy tỳ thang do Danh y Nghiêm Dụng Hòa (đời Tống, Trung Quốc) lập phương, viết trong sách Tế sinh phương. Bài thuốc đã tồn tại gần 1.000 năm, được nhiều danh y sử dụng và hiện vẫn chứng tỏ giá trị của nó dù xã hội có nhiều thay đổi. Mới đây, các nhà nghiên cứu tại Huế phát hiện tờ châu bản có bài Quy tỳ thang dùng để điều trị bệnh bồi bổ sức khỏe của cho vua Minh Mạng. Cũng tại Huế, người ta tìm được cứ liệu chứng tỏ Quy tỳ thang dùng chữa bệnh hiếm muộn, vô sinh rất hiệu quả.

Tâm thận thông nhau

Theo lý luận của Đông y, Tâm chủ hỏa, thận chủ thủy. Cơ thể khỏe mạnh thì thủy hỏa giao nhau (thủy hỏa ký tế). Vì vậy, muốn bổ Tâm phải bổ Thận; Tâm khỏe, Thận mới khỏe. Mặt khác: Tâm chủ thần minh, dựa vào huyết để nuôi dưỡng; Tỳ chủ thống nhiếp huyết, do khí mà nhiếp được huyết. Ở những người Tâm tỳ lưỡng hư, Tỳ hư bất vận, mất nguồn sinh hóa khí huyết làm cho tâm thần mất nuôi dưỡng, thần minh không yên gây nên hồi hộp trống ngực, mất ngủ hay quên, mệt mỏi, uể oải, chân tay rã rời... Tỳ không vận hóa thì khí tâm - thận không giao nhau khiến vừa hư nhược Tâm vừa suy yếu Thận.

Quy tỳ thang bổ tâm, thậnĐương quy

Theo y học hiện đại, tim và thận (gần tương đồng với với tạng Tâm và tạng Thận trong y học cổ truyền) liên quan mật thiết với nhau. Bệnh thận có thể do tim mạch gây nên; ngược lại bệnh thận dẫn đến biến chứng tim mạch.

Bài Quy tỳ thang được các thầy thuốc dùng chữa cho những người thuộc dạng bệnh: Tâm Tỳ lưỡng hư. Những người này có các triệu chứng: hư yếu, thể lực bị giảm sút, sắc mặt kém, thiếu máu, tinh thần bất an, đánh trống ngực dồn dập, hay quên, đêm ít ngủ, lo nghĩ vẩn vơ, hoặc bị sốt, đổ mồ hôi trộm, chân tay mệt mỏi, đại tiện có chiều hướng khó, ở phụ nữ thì kinh nguyệt thất thường, ở đàn ông thường bị chứng dương nuy, xuất tinh sớm... Thông qua phép bổ Tâm, Tỳ, Thận, Quy tỳ thang thích hợp dùng cho người lao động trí óc quá độ làm hao tổn tâm tỳ gây nên các chứng đánh trống ngực kinh sợ, hồi hộp, lú lẫn, hay quên. Bài thuốc Quy tỳ còn dùng chữa cho những người thận yếu, kinh nguyệt không đều, rối loạn tiêu hóa, suy tim, có các triệu chứng như bệnh mạch vành trong y học hiện đại (đau ngực, khó thở…), người mất ngủ kinh niên… Đặc biệt, nếu người có bệnh tim dùng thêm bài lục vị hoặc bát vị có khả năng phòng ngừa được nhồi máu cơ tim.

Ngày nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các quy mô khác nhau dùng Quy tỳ thang để điều trị chứng mất ngủ, chứng thiểu năng tuần huần não, chứng thiếu máu...

Quy tỳ thang bổ tâm, thậnMộc hương

Bài thuốc

Bài thuốc: táo nhân (sao đen) 12g, nhân sâm 12g, bạch truật (sao vàng) 12g, chích hoàng kỳ 12g, đương quy 12g, long nhãn 12g, mộc hương 8g, phục thần 12g, viễn chí 12g, chích cam thảo 8g, đại táo 5 trái. Bài thuốc này được làm hoàn mềm.

Nhân sâm có tác dụng “bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách” để bổ khí sinh huyết, dưỡng tâm ích tỳ. Long nhãn bổ ích tâm tỳ, dưỡng huyết an thần. Hoàng kỳ, bạch truật giúp nhân sâm ích khí kiện tỳ. Đương quy giúp long nhãn dưỡng huyết bổ tâm. Phục thần, viễn chí, táo nhân để ninh tâm, an thần. Mộc hương để lý khí tĩnh tỳ, phối hợp với thuốc bổ khí dưỡng huyết làm cho bổ mà không nê trệ ở vị. Cam thảo ích khí bổ trung, điều hòa các vị thuốc. Bài thuốc chủ yếu dùng vị ngọt ấm ích khí, bổ trợ các vị dưỡng huyết, an thần, lý khí. Tâm tỳ đồng trị nên trọng dụng bổ tỳ, khí huyết cùng bổ nên trọng dụng ích khí. Tỳ khí vượng thịnh thì huyết có nơi sinh, huyết có nơi nhiếp; huyết mạch sung túc thì thần có nơi trú ngụ, huyết có nơi để quy tụ. Cho nên bài thuốc này được gọi là bài “Quy tỳ thang”.

Trong thực tế điều trị vô sinh hiếm muộn cho cả nam lẫn nữ, qua nhiều năm kinh nghiệm với trên nhiều ca có cả bệnh tim mạch và qua nghiên cứu về y lý Đông y, chúng tôi đã gia các vị thuốc: thục địa 20g, liên nhục 20g, quế nhục 6g. Các vị thuốc này nhằm tăng cường bổ Thận âm (thục địa), bổ Tâm (liên nhục), tán hàn, làm ấm khí huyết (nhục quế).

Kết quả cho thấy, nhiều ca bệnh sức khỏe tăng toàn diện, ăn được, ngủ được, Thận mạnh lên tăng rõ rệt (cường dương, sinh tinh); nhiều ca rối loạn kinh nguyệt (kinh trước kỳ, vô kinh...) được điều trị khỏi hẳn.

BS. NGUYỄN PHÚ L M

((Chủ tịch Hội Đông y huyện Mang Thít, Vĩnh Long))

Mẹo trị côn trùng cắn với cây trong vườn nhà cho bé yêu

Một số loại côn trùng như ong, kiến, muỗi… khi cắn sẽ gây cảm giác đau đớn, ngứa ngáy,và khó chịu, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh và trẻ em vì làn da của bé thường nhạy cảm hơn người lớn.

mẹo trị côn trùng cắn

Dưới đây 4 phương pháp tự nhiên trị côn trùng cắn, hoàn toàn phù hợp với làn da của trẻ và bạn có thể dễ dàng làm tại nhà.

Mẹo trị côn trùng cắn với cây trong vườn nhà cho bé yêu

1. Chanh

Chanh có thuộc tính gây tê và chống viêm giúp điều trị một số bệnh về da bao gồm cả vết côn trùng cắn. Một số cách mà bạn có thể dùng chanh để điều trị côn trùng cắn cho trẻ em hay cả trẻ sơ sinh:

Phương pháp 1:

Chuẩn bị một quả chanh và cắt nó thành hai phần. Thoa đều trên da để giảm ngứa. Bạn cũng có thể chà cả vỏ chanh lên da.

chanh giảm nhiễm trùng vết cắn côn trùng

Chanh giảm nhiễm trùng vết cắn côn trùng

Phương pháp 2: Vắt lấy một ít nước cốt chanh và nhỏ vào vết cắn để giảm nhiễm trùng và sưng tấy trên da.

Phương pháp 3: Trộn nước chanh với một ít lá húng quế đã nghiền nát và đắp vào các vùng da bị ảnh hưởng.

húng quế

2. Tỏi

Tỏi là phương pháp trị vết côn trùng cắn hiệu quả nhất. Bạn có thể sử dụng tỏi để làm dịu ngứa và giảm sưng ngay lập tức. Cách làm như sau:

Thái lát nhỏ các tép tỏi

Đắp lên vùng da bị ảnh hưởng trong vài phút

Rửa sạch lại bằng nước

Tỏi giảm ngứa và sưng

Tỏi giảm ngứa và sưng

Bạn có thể dùng củ hành thay thế tỏi, vẫn đem lại hiệu quả như nhau.

3. Cây lô hội

Cây lô hội có tính sát trùng nên có thể điều trị muỗi đốt rất tốt. Thành phần này giúp hỗ trợ quá trình chữa bệnh, làm giảm ngứa, sưng và đau rất tốt.

lô hội làm dịu vết muỗi đốt

Lô hội làm dịu vết muỗi đốt

Cắt một lá lô hội và trích xuất gel. Để gel lô hội trong tủ lạnh khoảng 10-15 phút. Sau đó, bạn bôi gel vào khu vực bị ảnh hưởng.

4. Tinh dầu trà

Tinh dầu trà có tính sát trùng rất tốt, giúp chống lại vi khuẩn, giảm mụn trứng cá cũngđiều trị vết côn trùng cắn. Tinh dầu trà có tác dụng làm giảm cảm giác ngứa và sưng tấy. Bạn chỉ cần sử dụng một miếng bông và nhúng vào dầu cây trà, sau đó thoa đều vào các khu vực bị ảnh hưởng. Bạn có thể thử dầu tuyết tùng hoặc dầu hoa oải hương thay cho dầu cây trà. Hãy chắc chắn rằng bạn không bị dị ứng với những loại dầu đó.

Hướng Dương (theo VKool)

Bí quyết làm trắng răng tự nhiên mà hiệu quả bất ngờBí quyết làm trắng răng tự nhiên mà hiệu quả bất ngờMẹo dinh dưỡng giúp bạn khỏe mạnh cho chuyến đi xaMẹo dinh dưỡng giúp bạn khỏe mạnh cho chuyến đi xa10 lợi ích bất ngờ của việc chạy bộ10 lợi ích bất ngờ của việc chạy bộ

Điều trị chàm

Chàm là một bệnh da thường gặp với biểu hiện lâm sàng là các tổn thương da đa dạng, có xu hướng xuất tiết, phân bố đối xứng, dễ tái phát và trở thành mạn tính hóa, cảm giác ngứa rất dữ dội. Bệnh này thuộc về phạm trù chứng “phong chẩn” của y học cổ truyền.

Y học cổ truyền cho rằng bệnh này có thể do những nguyên nhân sau:

- Ăn uống không điều độ, uống rượu, ăn cay hoặc tanh quá nhiều làm tổn thương đến tỳ vị. Tỳ mất kiện vận sẽ làm cho thấp nhiệt nội sinh và ứ trệ, đồng thời ngoại cảm phải phong thấp nhiệt tà. Nội ngoại tà tương tác với nhau rồi ứ trệ lại ở bì phu mà sinh ra bệnh.

- Cũng có khi vì cơ thể hư nhược, tỳ bị thấp làm khốn, khiến cho cơ nhục không được nuôi dưỡng rồi sinh bệnh.

- Cũng có thể còn vì thấp nhiệt uất lâu ngày, làm hao tổn phần âm huyết, huyết hư hóa táo rồi sinh phong, tạo nên chứng huyết hư phong táo, làm cho bì phu không được nuôi dưỡng mà thành bệnh.

Điều trị chàm

Điều trị toàn thân

Thể thấp nhiệt cùng thịnh: thường gặp thể này ở giai đoạn chàm cấp tính.

Pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp, lương huyết giải độc.

Bài thuốc Long đởm tả can thang gia giảm: nhiệt thịnh: gia bạch mao căn, thạch cao; nhiệt độc thịnh: gia đại thanh diệp; đại tiện táo: gia đại hoàng. Cũng có thể dùng Thanh nhiệt lợi thấp thang.

Điều trị chàmBạch tật lê

Thể tỳ hư thấp thịnh:

Pháp điều trị: kiện tỳ, táo thấp, dưỡng huyết nhuận phu.

Bài thuốc: trừ thấp vị linh thang gia giảm: thấp thịnh, xuất tiết nhiều thì gia: tỳ giải, xa tiền tử.

Thể huyết hư phong táo:

Pháp điều trị: dưỡng huyết sơ phong, trừ thấp nhuận táo.

Bài thuốc: tiêu phong tán hoặc Tứ vật tiêu phong tán gia giảm: thấp thịnh gia: xa tiền tử, trạch lan. Ngứa nhiều gia: bạch tật lê, khổ sâm.

Điều trị chàmKhổ sâm

Điều trị tại chỗ

Giai đoạn cấp tính:

Khi bệnh mới phát chỉ đỏ tại chỗ, sẩn và mụn nước chưa vỡ, chưa xuất tiết thì nên dùng các thuốc ôn hòa tiêu viêm, tránh kích thích. Chọn cách đắp ướt các thuốc như thuốc rửa Lò cam thạch, dung dịch 2% băng phiến.

Khi các mụn nước đã vỡ và xuất tiết nhiều thì nên dùng các thuốc thu liễm, tiêu viêm... nhằm thúc đẩy da hồi phục. Có thể sắc lấy nước đặc đắp ướt những thuốc sau: rau sam 60g; hoàng bá, sinh địa du mỗi vị 30g; bồ công anh, long đởm thảo, cúc hoa, mỗi vị 30g.

Khi có bội nhiễm có thể thêm vào nước đắp các vị như xuyên tâm liên, sài đất, bản lam căn.

Khi xuất tiết nhiều có thể dùng Tam diệu tán hoặc Trừ thấp tán, trộn với glycerin thành cao lỏng rồi bôi lên tổn thương.

Giai đoạn cuối của giai đoạn cấp tính là giai đoạn bong vảy, nếu xử lý không tốt sẽ rất dễ làm cho bệnh kéo dài và chuyển thành mạn tính. Lúc này nên dùng các thuốc bảo vệ tổn thương, tránh các kích thích từ bên ngoài, thúc đẩy lớp sừng tái sinh và giải quyết tình trạng viêm còn sót lại. Thuốc nên dùng là các bài Cao thanh lương, Cao hoàng liên.

Giai đoạn bán cấp: nguyên tắc điều trị lúc này là tiêu viêm, trừ ngứa, thu liễm. Có thể sử dụng mỡ oxít kẽm, Trừ thấp tán, Tân tam diệu tán luyện với dầu thực vật thành cao, dầu tử thảo 5%, dầu địa du oxít kẽm 10%.

Chàm mạn tính: nguyên tắc điều trị là chữa ngứa, ức chế sự tăng sinh của biểu bì, tiêu trừ tình trạng viêm thâm nhiễm trong lớp chân bì. Có thể chọn cao hoàng liên, cao dầu đậu đen 10 - 20%.

Chàm là một bệnh da thường gặp, do hay tái phát nên diễn biến kéo dài, mang lại nhiều thống khổ cho người bệnh. Các thuốc kháng histamin không cho được kết quả như mong đợi; liệu pháp corticoid tuy có tác dụng nhất định, nhưng sau khi dừng thuốc thường có hiện tượng tái phát nặng hơn, lại có nhiều tác dụng phụ.

Thuốc y học cổ truyền với tác dụng chống viêm, trừ ngứa, điều tiết miễn dịch có tác dụng rất tốt với việc điều trị bệnh này, không có tác dụng phụ của các thuốc kháng histamin và corticoid, không bị tái phát nặng hơn. Do đó, việc phát huy những ưu thế của thuốc y học cổ truyền có thể cho những bài thuốc có hiệu quả tốt, an toàn là một việc làm rất có ý nghĩa.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

(Đơn vị Điều trị ban ngày - Cơ sở 3- BV. Đại học Y Dược TP.HCM)

Ốc sên hoa bổ trí não, trị hen...

Oa ngưu là tên thuốc từ loài ốc sên hoa - loài ốc lớn nhất trong họ ốc sên, sống ở trên cạn, nơi ẩm thấp, phổ biến trong các hốc cây, bụi cây, hàng rào cây xương rồng... Đó là một động vật thân mềm (nhuyễn thể) có vỏ to, tháp có 5-6 vòng xoắn, vòng miệng phồng to và rộng. Từ lâu, ốc sên hoa đã được làm thức ăn bổ dưỡng và làm thuốc. Ốc bắt về, để 24 giờ cho ốc nhả hết chất bẩn hoặc chất độc của cây cỏ mà ốc ăn phải. Đập bỏ vỏ, ruột, dạ dày và thực quản, chỉ lấy phần thịt, xát với muối và phèn chua, rửa sạch cho hết nhớt. Hoặc rải ốc thành lớp mỏng, rắc muối lên, đảo đều 3 lần cách nhau 5 phút. Lấy ốc ra, nhúng vào nước sôi 5-7 phút rồi rửa sạch. Nhể thịt ốc ra khỏi vỏ, cắt bỏ ruột. Cho thịt ốc vào nước muối 5% ngâm trong nửa giờ. Vớt ốc ra, rửa sạch nhớt và tạp chất, để ráo nước. Dùng tươi, không dùng thịt ốc phơi khô hay sấy khô. Ở Pháp, người ta đã nuôi ốc sên hoa trên quy mô công nghiệp và chế biến thịt ốc thành một món ăn-vị thuốc.

Theo y học hiện đại, thịt ốc sên hoa chứa 11% chất đạm, 6,2% đường, 150mg % Ca, 71mg % P, các acidamin chủ yếu là lencin, alanin, valin, acid glutamic, acid apratic… Tỷ lệ chất đạm trong ốc sên hoa cao hơn ốc vặn (10,8%), ốc bươu (10,7%) và các nhuyễn thể khác như sò (8,8g), trai (4,6g), hến (4,5g).

Trong y học cổ truyền, ốc sên hoa có vị mặn, tính hàn, tươi nhầy, có tác dụng bổ dưỡng, giải độc, tiêu viêm, giảm đau, chống co thắt, lợi tiểu…, được dùng trong các trường hợp sau:

Thuốc bồi bổ trí não cho người cao tuổi: thịt ốc sên hoa 1.000g, hoài sơn 600g, đường kính 750g, natri clicarbonat 12,5g, acid benjoic 2,5g, menthol 0,03g. Thịt ốc sên đã làm sạch hấp với nabicarbonat cho nhừ, giã nhỏ. Thêm đường vào, nấu kỹ. Trộn acid benzoic để bảo quản. Hoài sơn rang giòn, tán bột, rây mịn, trộn đều với thịt ốc cho thành khối bột không dính tay. Làm viên 4g. Sấy khô. Ngày dùng 4 viên, trong 15-30 ngày là một liệu trình.

Chữa hen suyễn, thấp khớp: ốc sên hoa 2 con làm thịt, nướng vàng, thái nhỏ, nấu lấy nước đặc. Măng tre 50g, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước cốt. Trộn hai nước lại, uống làm 1-2 lần trong ngày. Dùng trong thời gian dài.

Chữa kiết lỵ, tiêu chảy: thịt ốc sên hoa phơi khô, mỗi lần dùng 15g, sao cháy, sắc nước uống, ngày 3 lần, uống liền trong 3-5 ngày.

Chữa tràng nhạc: thịt ốc sên hoa tươi 60g hoặc phơi khô 30g, thái nhỏ, nấu chín với thịt lợn nạc 100g, thêm gia vị ăn trong ngày.

Lương y Hoài Vũ